Có lần Lê Quý Đôn đi đường xa, vào ăn cơm tại một quán hàng. Khi trả tiền, Đôn đã cầm xem quyển sách ghi nợ của chủ quán để trên bàn. Sau đó ít lâu, khi quay lại vùng này, quán hàng đó vừa bị cháy, vợ chồng chủ quan than vãn với Đôn rằng 'Quyển sổ nợ cậu xem dạo trước cũng bị cháy, giờ không còn biết ai nợ bác nhiêu mà đòi nữa'. Đôn đứng ngẫm nghĩ một lát rồi lấy bút ghi lại được hết danh sách nợ đưa cho chủ quán.
Trần Thủ Độ (1194 - 1264) là người có công sáng lập ra triều Trần, được vua phong làm Quốc thượng phụ rồi Thái sư. Bằng tài năng, uy tín của mình, ông đã củng cố nước Việt vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, quân sự... Ông có vai trò rất quan trọng trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), lưu danh với câu nói bất hủ: 'Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ ha đừng lo'.
Phùng Tá Thang, người xã Mỹ Xá huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng (nay thuộc xã Phú Sơn, huyện Hưng Hà), là thân phụ của quan Nội Hầu Phùng Tá Chu. Ông là một tri thức xuất sắc dưới triều Lý, học trò của Đỗ Đô, người có đóng góp vào quá trình hình thành giáo phái Trúc Lâm. Học trò của Phùng Tá Thang về giáo lý đạo Phật đều là yếu nhân của hoàng phái nhà Trần.
Là bậc công thân, vừa có công hưng công nhà Trần, vừa có công lớn giúp rập dưới triều Trần Thái Tông. Ông là người lớn tiếng với cựu thần nhà Lý, lấy gương Lữ Hậu, Võ Hậu làm vua để tôn phò Lý Chiêu Hoàng, tạo cảnh một cho vở kịch truyền ngôi cho vương triều Trần. Trần Thái Tông lên ngôi đã phong ông chức Thái phó - quyền phụ chính, kiêm tri phủ Nghệ An.
Người làng Đặng xá, huyện Hưng Hà, khởi nguồn từ danh thần Phạm Cự Lượng, người có công đầu tôn Lê Đại Hành lên ngôi hoàng đế, tướng chủ lực giúp nhà Tiền Lê đánh tan giặc Tống, là quan đầu triều đời Tiền Lê. Ông được Lê Đại Hành lấy đất Đặng Xá ban cho. Vì có công kiến thiết quê hương giầu đẹp, được dân tôn làm Thành hoàng làng.
Đỗ Nguyên Chương tự là Đỗ Huỳnh, quê làng An Để, nay thuộc xã Hiệp Hoà, huyện Vũ Thư là con cháu xa đời Hoàng hậu Đỗ Thị Khương đời Lý Nam Đế. Thuở nhỏ theo cha vào kinh, đến khoa Giáp Dần (1314) đời Trần Minh Tông, đỗ Thái học sinh. Buổi đầu làm Tri chế cáo ở Hàn lâm viện, giúp thảo văn bản cho vua, sau chuyển sang ban võ giữ chức Đô kỵ uý, được triều đình cấp thực ấp lớn ở huyện Cẩm Giàng (tỉnh Hải Dương).
Thuở nhỏ có tên Đinh Tôn Nhân. Gia phả họ Đinh ở vùng Đô Kỳ - Y Đún viết: Nhật quốc sự triều Trần (biến loạn) có một ông họ Đinh tên Thỉnh văn hay chữ giỏi đã bỏ làng đến đất Đô Kỳ làm gia sư cho nhà họ Phạm, vừa để nương thân vừa để chờ thời. Ông chủ họ Phạm gả Phạm Thị Gái cho Đinh Thỉnh. Ít lâu sau vợ chồng Đinh Thỉnh sinh được một người con trai là Đinh Tôn Nhân. Hai cha con ông vào Lam Sơn theo Lê Lợi; được Lê Lợi yêu mến, xin cha mẹ gả em gái (Lê Thị Ngọc Vồi) cho Đinh Tôn Nhân. Tôn Nhân sinh được 1 gái 3 trai. Trưởng nữ là Đinh Thị Ngọc Kế, trưởng nam là Đinh Lễ và các thứ nam là Đinh Liệt, Đinh Bồ đều cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa ở Lam Sơn.
Bùi Quốc Hưng vốn quê làng Tri Lai, tổng Tri Lai, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương (Nay là thôn Phú Lạc, xã Phú Xuân, Thành phố Thái Bình). Ngô gia thế phả phần ngoại tổ viết: “Cáo tổ bên ngoại là Bùi Mộc Đạc nguyên gốc ở phủ Kiến Xương, huyện Vũ Tiên xã Cổ Lai. Ông làm quan dưới triều Trần, sinh ra Bùi Mộc Đức, Bùi Mộc Đống… sau chuyển vào hương Khả Lam”. Bùi Mộc Đức lấy con gái Lê Văn Thịnh là Lê Thị Ngọc Trinh, sinh ra Bùi Quốc Hưng.
Là cháu 4 đời Phò mã đô uý Hưng Mĩ hầu Vũ Trung Khái ở ấp Tô Xuyên (xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ). Vũ Uy còn có tên Vũ Công Toản: “Năm 1399, khi Hồ Quý Ly nắm toàn bộ quyền bính nội trị, ngoại giao…, cơ nghiệp nhà Trần đã sang tay họ Hồ. Ngài … với khí phách trung nghĩa cùng… 12 tôn thất nhà Trần chạy về điền trang Tô Xuyên… chiêu mộ binh sỹ để khôi phục quốc tộc” (Gia phả họ Vũ: trang 12). Gia phả họ Trần cũng chép: “Cao tổ họ Trần là Cẩn Trai…khoảng cuối thời nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi, giặc Minh xâm chiếm nước Nam, tổ tiên ta bồng bế con cháu chạy tản cư ra xa, thấy địa hình nơi nay… Phía Đông nhìn ra biển lớn. Sông Tô ngăn cách Bắc-Nam, Sông Đông bao bọc bèn muốn thiên cứ đến vùng này mưu đồ khôi phục nhà Trần… trong vòng 8-9 năm nhiều lần đánh lên phương Bắc…”
Xuất thân trong gia đình cự tộc họ Phạm làng Đông Địa Linh, xã An Bài, huyện Quỳnh Phụ, là bạn đồng trang lứa với huấn đạo Phạm Nhữ Dực (cùng xã, là nhà thơ nổi tiếng đời Hồ).
|