Người xã Lí Hải, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, xứ Sơn Tây, nay là thôn Lí Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Anh em con chú, con bác với Tiến sĩ Nguyễn Duy Tường.
Người xã Lí Hải, huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, xứ Sơn Tây, nay là thôn Lí Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người xã Cam Giá Hạ, nay là thôn Cam Giá, xã An Tường, huyện Vĩnh Tường. Năm 27 tuổi, ông đỗ Hoàng giáp khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận, đời vua Lê Thánh Tông (1463). Ông giữ các chứa quan Thượng thư bộ Hộ, kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Người xã Ích Minh thuộc huyện An Lạc, phủ Tam Đái, tỉnh Sơn Tây; về sau Ích Minh đồi lại là Ích Bằng, nay thuộc thôn Thụ Ích, xã Liên Châu.
Người châu Trung Hà, tổng Lưỡng Quán, huyện An Lạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây, nay là xóm Mỏm Voi, thôn I, xã Trung Hà, huyện Yên Lạc. Năm 32 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị (1842). Ông được giữ chức Hàn lâm viện Tu soạn, Nội các thừa chỉ. Đốc đốc tỉnh Bắc Ninh. Thị giảng học sĩ Viện Tập hiền, Án sát tỉnh Quảng Bình, Bố chánh Quảng Bình. Bố chánh tỉnh Thái Nguyên, Hữu Tham trị Bộ hình. Từ tháng 11 năm Tự Đức 14 (1861), ông đổi tên là Nguyễn Mại vì có sắc chỉ kiêng húy là chữ Cần. Sau đó, ông đổi làm Tuần phủ tỉnh Hà Nội - tháng 4 năm Tự Đức 21 (1868) sung làm Tham tán quân thứ ở Lạng Bằng. Trong một trận giao tranh để cố thủ đồn Tú Sơn, thuộc Lạng Sơn, ông cùng với Lãnh binh sung phó đề đốc Nguyễn Viết Thành tử tiết tại trận. Triều đình truy tặng Tư thiện đại phu, Thượng thư bộ Binh.
Người xã Bình Đăng (cùng gọi là Bằng Đắng), huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái, tỉnh Sơn Tây, nay là thôn Bình Trù, xã Cao Đại, huyệnVĩnh Tường.
Sau đổi là Đình Sách, tên hiệu là Đức Hiên, người xã Văn Trưng, huyện Bạch Hạc, nay là thôn Văn Trưng, xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường.
Người xã Bồ Sao (cũng đọc là Bồ Tiêu), huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái thuộc Sơn Tây, nay là xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường. Bia Văn Miếu Hà Nội chép là Nguyễn Văn Phú. Một số sách chép là Nguyễn Viết Đương (hoặc Văn Đương) là tên đổi về sau. Bởi vậy, trên bia Văn Miếu khoa Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa (1683) chép tên ông là Nguyễn Văn Đương.
Tên hiệu là Xuân Hiên Tiên sinh, người xã Thượng Trưng, huyện Bạch Hạc, nay là xã Thượng Trưng
Do gia cảnh bần hàn vì cha mất sớm nên Phí Văn Thuật có cuộc sống vất vả, 21 năm sau mời trở lại nơi trường ốc. Người xã Yên Lãng, nay là thôn Hợp Lễ, xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, là con trai trưởng của Nguyễn Duy Thì
Năm 27 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ, đời vua Lê Thần Tông (1628), giữ các chức quan Hàn lâm viện Hiệu lí, Đô cấp tự trung Lại khoa. Niên hiệu Dương Hòa (1637), vua Lê Thần Tông cử hai đoàn sứ bộ cùng sang Bắc Kinh dâng lễ cống lên vua Sùng Trinh triều Minh. Một đoàn do Nguyễn Duy Hiểu làm chánh sứ, một đoàn do Giang Văn Minh làm Chánh sứ. Kết quả của cuộc đi sứ không thành, hai ông chánh sứ là Nguyễn Duy Hiểu và Giang Văn Minh đều mất. |