Phan Thúc Duyện tự là Mi Sanh, hiệu là Phong Thử, còn có tên là Phan Diện, quê làng Phong Thử, nay thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đỗ cử nhân khoa Nhâm Tý (1900), bạn đồng khoa với Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến…
Trương Chí Cương sinh năm 1919 tại xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình thợ thủ công. Năm 1936, gia nhập Đoàn Thanh niên Dân chủ. Năm 1939, bị bắt kết án tù một năm, giam ở nhà lao Hội An. Ra tù, tiếp tục hoạt động, được bầu vào Phủ ủy Duy Xuyên. Năm 1942, làm Bí thư Phủ ủy Tam Kỳ. Tháng 6-1942, bị địch bắt, kết án tù, đày lên Buôn Ma Thuột.
Tên thật là Võ Toàn, sinh năm 1913, quê xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ, nay là huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Sớm giác ngộ chính trị, ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1933.
Bùi Chát là người đầu tiên quê ở Quảng Nam được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kháng chiến chống Pháp và cũng là lớp chiến sĩ được phong Anh hùng đầu tiên của lực lượng vũ trang Quân khu V.
Mai Dị sinh năm 1880 trong một gia đình nhà Nho ở làng Nông Sơn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ, học Trường Đốc (tức trường tỉnh), đỗ cử nhân năm 1906 tại trường thi Thừa Thiên.
Danh nhân Đỗ Quang sinh ngày 25 tháng 9 năm Đinh Mão ( 1807) trong một gia đình khoa bảng. Năm 1827 ông được xung chức hành tẩu Bộ Binh. Khoa thi năm nhâm thìn 1832 ông thi đỗ tiến sĩ và lần lượt đảm nhiệm các chức: Tri phủ Diễn Châu, án sát Quảng Trị, Công Bộ Thị Lang, giám khảo trường thi, thăng chức Lang Trung, làm giảng quan, duyệt quyển thi đình, thự tham tri Bộ Lễ, ở vị trí nào ông cũng mang hết tài năng và tình cảm của mình chăm lo đời sống nhân dân, thương dân mất mùa đói khổ ông tự giảm thuế cho dân nên bị triều đình trách phạt, phải chịu tội đồ, khi phúc tra ông được minh oan, phục nguyên chức cũ.
Đỗ Thế Chấp bí danh là Đỗ Thế Mười, Đỗ Thế Diệm, tên thường gọi là Mười Chấp; sinh ngày 10 tháng 12 năm 1922 ở xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945,... ông đã từng bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao Vĩnh Điện, Hội An. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông trải qua các chức vụ: Ủy viên huyện ủy Tam Kỳ, Ủy viên Thường vụ Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Quảng Nam.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ở vị trí công tác nào, ở bất cứ đâu, nhất là những nơi khó khăn, ác liệt và phức tạp, đồng chí Hồ Nghinh cũng bám sát cuộc sống, lấy thực tiễn cuộc sống làm cơ sở cho tư duy sáng tạo trong việc lãnh đạo, chỉ đạo của mình (Nhà văn Hồ Duy Lệ).
Ông Hoàng Dư Khương là một cán bộ cách mạng cương trực, giàu nghị lực, kiên định, có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu, trong gầy dựng phong trào cách mạng.
Huỳnh Ngọc Huệ là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất trong chiến đấu, thông minh và có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng ngành quân giới ở cấp tỉnh và khu. Ông đã từng giữ chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng và là lãnh đạo Ủy ban khởi nghĩa thành phố (năm 1945), năm 1946, ông là Đại biểu quốc hội của tỉnh Quảng Nam khóa 1. Ngoài ra, ông là một trong các vị sáng lập Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, năm 1946, ông là ủy viên chấp hành liên hiệp công đoàn thế giới.
|