Từ cuối năm 1954, cùng với việc khắc phục những hậu quả chiến tranh, tỉnh Vĩnh Phúc tích cực khôi phục kinh tế, tập trung phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời chú trọng phát triển công - thương nghiệp. Từ tháng 10 đến cuối tháng 12 - 1954, nhân dân các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lãng, Bình Xuyên đã góp gần 7 vạn ngày công để tu bổ hệ thống nông giang Liễn Sơn và nhanh chóng đưa vào sử dụng, cung cấp nước tưới cho 21.500 ha lúa của 6 huyện trong tỉnh.
Từ cuối năm 1954, cùng với việc khắc phục những hậu quả chiến tranh, tỉnh Vĩnh Phúc tích cực khôi phục kinh tế, tập trung phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, đồng thời chú trọng phát triển công - thương nghiệp. Từ tháng 10 đến cuối tháng 12 - 1954, nhân dân các huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lãng, Bình Xuyên đã góp gần 7 vạn ngày công để tu bổ hệ thống nông giang Liễn Sơn và nhanh chóng đưa vào sử dụng, cung cấp nước tưới cho 21.500 ha lúa của 6 huyện trong tỉnh.
Công tác khai hoang phục hoá cũng được đẩy mạnh. Trong những năm chiến tranh, toàn tỉnh có 47.222 mẫu ruộng bị bỏ hoang. Tính đến tháng 7/1955 đã có trên 70% diện tích hoang hoá được khôi phục.
Ngay từ tháng 10/1955 ngành thương nghiệp đã có bước phát triển mới. Hệ thống hợp tác xã mua bán được xây dựng ở nhiều xã và từ năm 1959, hợp tác xã tín dụng cũng được xây dựng.
Song song với quá trình phục hồi kinh tế, Vĩnh Phúc đã tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sau thắng lợi của cải cách ruộng đất (Kết thúc cải cách ruộng đất, toàn tỉnh đã tịch thu, trưng mua 22.055 ha ruộng đất, 13.125 con trâu bò, 5.838 căn nhà các loại, 71.155 nông cụ và 634 tấn lương thực), công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được triển khai mạnh mẽ. Phong trào đổi công ở Vĩnh Phúc ra đời từ trong kháng chiến, sau khi kháng chiến thắng lợi, phong trào này tiếp tục phát triển mạnh, trở thành tiền đề quan trọng hàng đầu để xây dựng phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Năm 1954, toàn tỉnh đã có 3.564 tổ và năm 1956 tăng lên 13.923 tổ. Trên cơ sở đó, việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp được triển khai rộng rãi trên quy mô toàn tỉnh. Đến cuối năm 1960, kết thúc kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, tỉnh đã thành lập được 1.350 hợp tác xã gồm 107.944 hộ nông dân, đạt 92,68% tổng số hộ nông dân. Số ruộng đất thuộc các hợp tác xã nông nghiệp là 2000.335 mẫu (chiếm 81,21%), số trâu bò đưa vào hợp tác xã là 68.921 con (chiếm 83,4%). Trên cơ sở thí điểm hợp tác xã bậc cao, đến năm 1960, toàn tỉnh đã có 32 hợp tác xã bậc cao. Tính đến năm 1960, công cuộc xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp về cơ bản đã hoàn thành trên địa bàn Vĩnh Phúc.
Đối với ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành cải tạo theo các hình thức hợp tác, hợp doanh. Đến cuối năm 1960, toàn tỉnh đã đưa 14.559 thợ thủ công vào làm ăn tập thể và 5.393 hộ tiểu thương (chiếm 88%) vào các tổ chức kinh doanh dịch vụ.
Năm 1961, Vĩnh Phúc tiến hành thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho thời kì này là: Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật để tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hoá và cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần II năm 1961đã cụ thể hoá phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn mới như sau: Ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp, tăng cường thương nghiệp hợp tác xã, hoàn thành cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp, đưa một số hợp tác xã đủ điều kiện lên bậc cao. Theo đó, các huyện Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên, Kim Anh, Đa Phúc, quy mô hợp tác xã chỉ trên dưới 100 hộ, những nơi khác trên 200 hộ. Năm 1961, tỉnh đã tiến hành củng cố hợp tác xã, sáp nhập hợp tác xã trong phạm vi toàn thôn. Số hợp tác xã còn lại là 817, đạt tỉ lệ 95,10%. Trong 2 năm 1961, 1962, sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là 7,3%. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1962 tăng hơn năm 1960 là 33.780 tấn.
Bên cạnh đó, công tác khai hoang, phục hoá cũng được tỉnh đẩy mạnh, tính đến năm 1965 đã khai hoang được 19.000 mẫu, nâng diện tích bình quân toàn tỉnh lên 4 sào/1 người. Cùng với việc triển khai cuộc vận động cải tiến quản lí hợp tác xã, trong sản xuất nông nghiệp, năng suất, diện tích, sản lượng cây trồng đều tăng so với những năm trước. Năm 1963, bình quân lương thực đầu người đạt 397 kg; đàn trâu bò cũng không ngừng tăng, việc nuôi thả cá đã được triển khai ở nhiều hợp tác xã, số hợp tác xã chăn nuôi tập thể đã tăng từ 180 (năm 1962) lên 201 hợp tác xã (năm 1963). Năm 1963, Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh dẫn đầu toàn miền Bắc về sản xuất lương thực, trồng cây, làm thuỷ lợi và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp.
Năm 1964 tổng sản lượng lương thực quy thóc cả năm đạt 256.740 tấn, vượt kế hoạch 4,39%, là năm có tổng sản lượng cao nhất kể từ khi hoà bình lập lại. Vĩnh Phúc là địa phương dẫn đầu toàn miền Bắc về năng suất lúa với 4.352 kg/ha. Nhiều hợp tác xã có năng suất bình quân trên 6000 kg/ ha.
Về công nghiệp, Vĩnh Phúc đã tập trung phát triển theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ đồng thời với phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp Trung ương, tích cực, đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương; kết hợp xây dựng xí nghiệp lớn với xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ; kết hợp kĩ thuật hiện đại với kĩ thuật thô sơ.
Trước năm 1960, ngành công nghiệp Vĩnh Phúc còn nhỏ bé và lạc hậu cơ sở vật chất kĩ thuật công nghiệp và thủ công nghiệp yếu kém, tỉ trọng giá trị công nghiệp chỉ chiếm 14,9% trong tỉ trọng công - nông nghiệp. Trong thời kì thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I, ngành công nghiệp và thủ công nghiệp Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến tích cực, một số cơ sở sản xuất mới được xây dựng và đi vào hoạt động, các cơ sở xí nghiệp quốc doanh đã được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị như: gỗ Bạch Hạc, gạch Quất Lưu, đường Quyết Tiến, mộc Cầu Oai... Cũng trong thời kì này, tỉnh đã xây dựng được 7 xí nghiệp cơ khí luyện kim nhằm tăng cường trang thiết bị cho các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nhìn chung ngành công nghiệp địa phương của tỉnh vẫn phát triển chậm. Năm 1965, tổng giá trị sản lượng nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp mới chỉ đạt hơn 15% trong tổng số giá trị công - nông nghiệp toàn tỉnh.
Từ năm 1965, nhân dân Vĩnh Phúc và nhân dân miền Bắc lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ. Phát triển kinh tế trong điều kiện chiến tranh là yêu cầu rất quan trọng đặt ra lúc bấy giờ. Trên cơ sở xem xét lại những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp những năm 1965, 1966 (thời tiết, sâu bệnh, chiến tranh, vấn đề quản lí sản xuất trong các hợp tác xã), năng suất giảm sút, Vĩnh Phúc đã tiến hành thí điểm khoán, trong hợp tác xã nông nghiệp (Là địa phương đi đầu trong việc tổ chức chế độ khoán trong sản xuất nông nghiệp: nhóm, lao động và hộ gia đình từ năm 1966. Việc thực hiện chủ trương này gắn liền với tên tuổi của đồng chí Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh uỷ và trong một thời gian dài, chủ trương này được xem xét và đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong thời kì đổi mới, chủ trương này đã được tái nhận thức và đánh giá như là một trong những sáng tạo có bản lĩnh và tư duy chiến lược về định hướng phát triển nông thôn, nông nghiệp Việt Nam).Chính sách khoán trong nông nghiệp - một hướng đi mới được triển khai đã mở lối cho nông nghiệp Vĩnh Phúc phát triển. Nhờ đó, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng sản xuất vẫn được duy trì và giành nhiều kết quả khả quan, nhiều huyện và xã đạt năng suất trên 5 tấn/ha, một số hợp tác xã đạt trên 7 tấn/ha.
Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp cũng có bước tăng trưởng khá. Năm 1967, toàn tỉnh đã có 12 xí nghiệp lớn nhỏ được xây dựng và đưa vào sản xuất như xí nghiệp giấy, than bùn, cơ khí Lập Thạch, Yên Lạc, các xí nghiệp làm bát sứ, xẻ gỗ, sửa chữa máy kéo, làm magi,… xây dựng trên 200 xưởng cơ khí ở các xã. Hệ thống hợp tác xã mua bán được củng cố và mở rộng.
Trong thời kì hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ (1968 - 1975), sản xuất gặp không ít khó khăn do hậu quả chiến tranh, thiên tai... tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Đến đầu năm 1971, toàn tỉnh đã có 1.064 hợp tác xã bậc cao, thu hút 98% nông dân vào hợp tác xã. (Trong giai đoạn này hoạt động nông nghiệp gặp không ít khó khăn. Trận lụt năm 1971 đã gây ra hậu quả rất nặng nề. Toàn tỉnh có 320/422 xã bị ngập úng, 45 vạn dân phải sơ tán, 2 vạn ha lúa và 5000 ha hoa màu, cây công nghiệp bị hỏng, hệ thống cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng)
Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp vẫn trong tình trạng khó khăn, thiếu nguyên vật liệu. Để ổn định và phát triển công nghiệp tỉnh đã có kế hoạch tập trung đầu tư, mở rộng các xí nghiệp địa phương, tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Một số mặt hàng có bước tăng trưởng khá như cơ khí, vật liệu xây dựng, sành sứ, thuỷ tinh, giấy...
Công tác lâm nghiệp trong thời kì này đã được chú trọng. Phát huy phong trào trồng cây gây rừng những năm trước, việc phát triển lâm nghiệp đã được quy hoạch đầu tư cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật, đưa công tác quản lí, bảo vệ tài nguyên, tu bổ, nuôi dưỡng và trồng rừng trở thành trọng tâm. Trong những năm 1971-1975 toàn tỉnh đã trồng thêm được 9.100 ha rừng với trên 71 triệu cây, bằng 25 % tổng diện tích trồng rừng 15 năm trước.
Giai đoạn 1973-1975, khi Mĩ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhân dân Vĩnh Phúc bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất trong điều kiện hết sức khó khăn. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo củng cố hợp tác xã nông nghiệp ở 2 khu vực đồng bằng và trung du nhằm mở rộng và tăng nhanh diện tích gieo trồng, nâng cao năng suất và sản lượng, đẩy mạnh thâm canh, phát triển chăn nuôi, hình thành các vùng chuyên canh theo quy hoạch như lúa, chè, thuốc lá, rau màu,...
Các công trình công nghiệp mới cũng đã được xây dựng và vận hành như xí nghiệp nghiền Apatit Phúc Yên, trạm máy kéo Kim Anh. Các hợp tác xã thủ công được đầu tư thiết bị mới như gạch ngói Thống Nhất (Bình Xuyên), rèn Lí nhân (Vĩnh Tường). Tuy nhiên, kinh tế Vĩnh Phúc giai đoạn này phát triển chậm, cơ cấu kinh tế nông - công - lâm nghiệp ít chuyển biến, sản xuất nông nghiệp phát triển chưa vững chắc, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn lạc hậu. Song nhìn chung, trong điều kiện khó khăn lúc bấy giờ, đó vẫn là những thành tựu rất quan trọng để Vĩnh Phúc bước vào thời kì mới.
Công tác khai hoang phục hoá cũng được đẩy mạnh. Trong những năm chiến tranh, toàn tỉnh có 47.222 mẫu ruộng bị bỏ hoang. Tính đến tháng 7/1955 đã có trên 70% diện tích hoang hoá được khôi phục.
Ngay từ tháng 10/1955 ngành thương nghiệp đã có bước phát triển mới. Hệ thống hợp tác xã mua bán được xây dựng ở nhiều xã và từ năm 1959, hợp tác xã tín dụng cũng được xây dựng.
Song song với quá trình phục hồi kinh tế, Vĩnh Phúc đã tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sau thắng lợi của cải cách ruộng đất (Kết thúc cải cách ruộng đất, toàn tỉnh đã tịch thu, trưng mua 22.055 ha ruộng đất, 13.125 con trâu bò, 5.838 căn nhà các loại, 71.155 nông cụ và 634 tấn lương thực), công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được triển khai mạnh mẽ. Phong trào đổi công ở Vĩnh Phúc ra đời từ trong kháng chiến, sau khi kháng chiến thắng lợi, phong trào này tiếp tục phát triển mạnh, trở thành tiền đề quan trọng hàng đầu để xây dựng phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Năm 1954, toàn tỉnh đã có 3.564 tổ và năm 1956 tăng lên 13.923 tổ. Trên cơ sở đó, việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp được triển khai rộng rãi trên quy mô toàn tỉnh. Đến cuối năm 1960, kết thúc kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, tỉnh đã thành lập được 1.350 hợp tác xã gồm 107.944 hộ nông dân, đạt 92,68% tổng số hộ nông dân. Số ruộng đất thuộc các hợp tác xã nông nghiệp là 2000.335 mẫu (chiếm 81,21%), số trâu bò đưa vào hợp tác xã là 68.921 con (chiếm 83,4%). Trên cơ sở thí điểm hợp tác xã bậc cao, đến năm 1960, toàn tỉnh đã có 32 hợp tác xã bậc cao. Tính đến năm 1960, công cuộc xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp về cơ bản đã hoàn thành trên địa bàn Vĩnh Phúc.
Đối với ngành thủ công nghiệp và thương nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành cải tạo theo các hình thức hợp tác, hợp doanh. Đến cuối năm 1960, toàn tỉnh đã đưa 14.559 thợ thủ công vào làm ăn tập thể và 5.393 hộ tiểu thương (chiếm 88%) vào các tổ chức kinh doanh dịch vụ.
Năm 1961, Vĩnh Phúc tiến hành thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản đặt ra cho thời kì này là: Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật để tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hoá và cải thiện đời sống nhân dân. Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần II năm 1961đã cụ thể hoá phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn mới như sau: Ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp phục vụ nông nghiệp, tăng cường thương nghiệp hợp tác xã, hoàn thành cải cách xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp, đưa một số hợp tác xã đủ điều kiện lên bậc cao. Theo đó, các huyện Lập Thạch, Tam Dương, Bình Xuyên, Kim Anh, Đa Phúc, quy mô hợp tác xã chỉ trên dưới 100 hộ, những nơi khác trên 200 hộ. Năm 1961, tỉnh đã tiến hành củng cố hợp tác xã, sáp nhập hợp tác xã trong phạm vi toàn thôn. Số hợp tác xã còn lại là 817, đạt tỉ lệ 95,10%. Trong 2 năm 1961, 1962, sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là 7,3%. Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1962 tăng hơn năm 1960 là 33.780 tấn.
Bên cạnh đó, công tác khai hoang, phục hoá cũng được tỉnh đẩy mạnh, tính đến năm 1965 đã khai hoang được 19.000 mẫu, nâng diện tích bình quân toàn tỉnh lên 4 sào/1 người. Cùng với việc triển khai cuộc vận động cải tiến quản lí hợp tác xã, trong sản xuất nông nghiệp, năng suất, diện tích, sản lượng cây trồng đều tăng so với những năm trước. Năm 1963, bình quân lương thực đầu người đạt 397 kg; đàn trâu bò cũng không ngừng tăng, việc nuôi thả cá đã được triển khai ở nhiều hợp tác xã, số hợp tác xã chăn nuôi tập thể đã tăng từ 180 (năm 1962) lên 201 hợp tác xã (năm 1963). Năm 1963, Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh dẫn đầu toàn miền Bắc về sản xuất lương thực, trồng cây, làm thuỷ lợi và phong trào hợp tác hoá nông nghiệp.
Năm 1964 tổng sản lượng lương thực quy thóc cả năm đạt 256.740 tấn, vượt kế hoạch 4,39%, là năm có tổng sản lượng cao nhất kể từ khi hoà bình lập lại. Vĩnh Phúc là địa phương dẫn đầu toàn miền Bắc về năng suất lúa với 4.352 kg/ha. Nhiều hợp tác xã có năng suất bình quân trên 6000 kg/ ha.
Về công nghiệp, Vĩnh Phúc đã tập trung phát triển theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí; kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ đồng thời với phát triển công nghiệp nặng; ra sức phát triển công nghiệp Trung ương, tích cực, đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương; kết hợp xây dựng xí nghiệp lớn với xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ; kết hợp kĩ thuật hiện đại với kĩ thuật thô sơ.
Trước năm 1960, ngành công nghiệp Vĩnh Phúc còn nhỏ bé và lạc hậu cơ sở vật chất kĩ thuật công nghiệp và thủ công nghiệp yếu kém, tỉ trọng giá trị công nghiệp chỉ chiếm 14,9% trong tỉ trọng công - nông nghiệp. Trong thời kì thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ I, ngành công nghiệp và thủ công nghiệp Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến tích cực, một số cơ sở sản xuất mới được xây dựng và đi vào hoạt động, các cơ sở xí nghiệp quốc doanh đã được đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị như: gỗ Bạch Hạc, gạch Quất Lưu, đường Quyết Tiến, mộc Cầu Oai... Cũng trong thời kì này, tỉnh đã xây dựng được 7 xí nghiệp cơ khí luyện kim nhằm tăng cường trang thiết bị cho các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nhìn chung ngành công nghiệp địa phương của tỉnh vẫn phát triển chậm. Năm 1965, tổng giá trị sản lượng nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp mới chỉ đạt hơn 15% trong tổng số giá trị công - nông nghiệp toàn tỉnh.
Từ năm 1965, nhân dân Vĩnh Phúc và nhân dân miền Bắc lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ. Phát triển kinh tế trong điều kiện chiến tranh là yêu cầu rất quan trọng đặt ra lúc bấy giờ. Trên cơ sở xem xét lại những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp những năm 1965, 1966 (thời tiết, sâu bệnh, chiến tranh, vấn đề quản lí sản xuất trong các hợp tác xã), năng suất giảm sút, Vĩnh Phúc đã tiến hành thí điểm khoán, trong hợp tác xã nông nghiệp (Là địa phương đi đầu trong việc tổ chức chế độ khoán trong sản xuất nông nghiệp: nhóm, lao động và hộ gia đình từ năm 1966. Việc thực hiện chủ trương này gắn liền với tên tuổi của đồng chí Kim Ngọc - Bí thư Tỉnh uỷ và trong một thời gian dài, chủ trương này được xem xét và đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong thời kì đổi mới, chủ trương này đã được tái nhận thức và đánh giá như là một trong những sáng tạo có bản lĩnh và tư duy chiến lược về định hướng phát triển nông thôn, nông nghiệp Việt Nam).Chính sách khoán trong nông nghiệp - một hướng đi mới được triển khai đã mở lối cho nông nghiệp Vĩnh Phúc phát triển. Nhờ đó, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng sản xuất vẫn được duy trì và giành nhiều kết quả khả quan, nhiều huyện và xã đạt năng suất trên 5 tấn/ha, một số hợp tác xã đạt trên 7 tấn/ha.
Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp cũng có bước tăng trưởng khá. Năm 1967, toàn tỉnh đã có 12 xí nghiệp lớn nhỏ được xây dựng và đưa vào sản xuất như xí nghiệp giấy, than bùn, cơ khí Lập Thạch, Yên Lạc, các xí nghiệp làm bát sứ, xẻ gỗ, sửa chữa máy kéo, làm magi,… xây dựng trên 200 xưởng cơ khí ở các xã. Hệ thống hợp tác xã mua bán được củng cố và mở rộng.
Trong thời kì hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ (1968 - 1975), sản xuất gặp không ít khó khăn do hậu quả chiến tranh, thiên tai... tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh xây dựng hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Đến đầu năm 1971, toàn tỉnh đã có 1.064 hợp tác xã bậc cao, thu hút 98% nông dân vào hợp tác xã. (Trong giai đoạn này hoạt động nông nghiệp gặp không ít khó khăn. Trận lụt năm 1971 đã gây ra hậu quả rất nặng nề. Toàn tỉnh có 320/422 xã bị ngập úng, 45 vạn dân phải sơ tán, 2 vạn ha lúa và 5000 ha hoa màu, cây công nghiệp bị hỏng, hệ thống cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng)
Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp vẫn trong tình trạng khó khăn, thiếu nguyên vật liệu. Để ổn định và phát triển công nghiệp tỉnh đã có kế hoạch tập trung đầu tư, mở rộng các xí nghiệp địa phương, tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Một số mặt hàng có bước tăng trưởng khá như cơ khí, vật liệu xây dựng, sành sứ, thuỷ tinh, giấy...
Công tác lâm nghiệp trong thời kì này đã được chú trọng. Phát huy phong trào trồng cây gây rừng những năm trước, việc phát triển lâm nghiệp đã được quy hoạch đầu tư cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật, đưa công tác quản lí, bảo vệ tài nguyên, tu bổ, nuôi dưỡng và trồng rừng trở thành trọng tâm. Trong những năm 1971-1975 toàn tỉnh đã trồng thêm được 9.100 ha rừng với trên 71 triệu cây, bằng 25 % tổng diện tích trồng rừng 15 năm trước.
Giai đoạn 1973-1975, khi Mĩ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, nhân dân Vĩnh Phúc bắt tay vào hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất trong điều kiện hết sức khó khăn. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo củng cố hợp tác xã nông nghiệp ở 2 khu vực đồng bằng và trung du nhằm mở rộng và tăng nhanh diện tích gieo trồng, nâng cao năng suất và sản lượng, đẩy mạnh thâm canh, phát triển chăn nuôi, hình thành các vùng chuyên canh theo quy hoạch như lúa, chè, thuốc lá, rau màu,...
Các công trình công nghiệp mới cũng đã được xây dựng và vận hành như xí nghiệp nghiền Apatit Phúc Yên, trạm máy kéo Kim Anh. Các hợp tác xã thủ công được đầu tư thiết bị mới như gạch ngói Thống Nhất (Bình Xuyên), rèn Lí nhân (Vĩnh Tường). Tuy nhiên, kinh tế Vĩnh Phúc giai đoạn này phát triển chậm, cơ cấu kinh tế nông - công - lâm nghiệp ít chuyển biến, sản xuất nông nghiệp phát triển chưa vững chắc, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp còn lạc hậu. Song nhìn chung, trong điều kiện khó khăn lúc bấy giờ, đó vẫn là những thành tựu rất quan trọng để Vĩnh Phúc bước vào thời kì mới.